Lịch sử và các Đồ hình Kinh dịch - Hồn Trống Việt

Lịch sử và các Đồ hình Kinh dịch

Hình 1: Thái cực – Tai chi

Kinh Dịch (易經, I Ching), với biểu tượng hình Thái cực (Tai Chi) vẫn luôn được coi là một trong 5 Kinh Điển, thể hiện hệ thống tư tưởng triết học của người Trung Quốc cổ đại và có ảnh hưởng rất lớn đến các nước Viễn Đông và Việt Nam.

“Điều kỳ dị nhất là môn “dịch học” nó chỉ dựng trên thuyết âm dương, trên một vạch liền _ tượng trưng cho dương, một vạch đứt _ _ tượng trưng cho âm, hai vạch đó chồng lên nhau, đổi lẫn cho nhau nhiều lần thành ra tám hình bát quái, rồi tám hình bát quái này lại chồng lẫn lên nhau thành sáu mươi bốn hình mới: Lục thập tứ quái. Dùng sáu mươi bốn hình này, người Trung Hoa diễn được tất cả các quan niệm về vũ trụ, về nhân sinh, từ những hiện tượng trên trời dưới đất, những luật thiên nhiên tới những đồ dùng, những công việc thường ngày như trị nước, ra quân, trị nhà, cưới hỏi, ăn uống, xử thế…”1Nguyễn Hiến Lê: Kinh Dịch Đạo Của Người Quân Tử, NXB Hồng Đức.

Kể từ thế kỷ XVIII, sau khi được Châu Âu nghiên cứu và ứng dụng, KD đã trở thành cuốn sách được biết đến trên khắp thế giới.

Tóm tắt lịch sử Kinh Dịch

Lịch sử Kinh Dịch rất phức tạp, tóm tắt dưới đây chỉ nêu ra các mốc chính và ý kiến được nhiều người công nhận.

Hà đồ & Tiên thiên Bát quái

3500 TCN: Ông Phục Hy thấy Hà Đồ trên lưng con Long Mã đã tạo bát (8) quái và 64 Trùng quái (quẻ) Phục Hy.

Hình 2: Hà Đồ, Nút và Số, công bố vào đời Tống, khoảng năm 1000 SCN
Hình 3: Tiên thiên Bát Quái, công bố vào đời Tống, khoảng năm 1000 SCN.

Hai hình trên phải chờ đến 4500 năm sau mới được công bố, khoảng năm 1000 sau Công nguyên, vào đời Tống. Tuy nhiên, trong Kinh Dịch không hề cho biết rõ vị trí các quái của Tiên Thiên bát quái và các số của Hà Đồ ngoài một đoạn văn trong Thuyết Quái của Thập Dực:

“Thiên địa định vị, sơn trạch thông khí, chấn phong tương bạc, thủy hỏa bất tương xạ, Bát quái tương thố. Số vãng giả thuận, tri lai giả nghịch, thị cố Dịch nghịch số dã”.

Tiếng Việt: “Trời đất định ngôi, núi đầm thông khí, sấm gió kích động nhau, nước lửa chẳng diệt nhau, tám quẻ giao nhau. Đếm cái đi vào quá khứ tùy theo chiều thuận, biết cái sẽ đến tùy theo chiều nghịch, cho nên kinh Dịch đếm ngược vậy”.

Hình 4: Thứ tự của 64 Trùng Quái Phục Hy hay Tiên thiên

Bát Quái

Hinh 5: Tên, Thứ tự của bát Quái

Vạch liền là dương, vạch đứt là âm2Thực ra, hai chữ Âm Dương mãi sau này mới xuất hiện trong Hệ từ Thượng truyện. Nguyễn Hiến Lê: Kinh Dịch Đạo Của Người Quân Tử, NXB Hồng Đức, 3 vạch hay hào âm hoặc dương chồng lên nhau gọi là quái. Có 8 quái gọi là bát quái. Mỗi quái chồng lên chính nó hoặc một quái khác gọi là trùng quái hay quẻ, bao gồm 6 vạch/hào. Các quái có nhiều ý nghĩa khác nhau, điển hình là:

Hình, TượngTênTrong tự nhiênTính chất
1Càn, ThiênTrời, mặt trờiCương cứng, mạnh, lớn
2Đoài, TrạchĐầm, hồVui vẻ
3Ly, hỏaLửaSáng, nóng
4Chấn, lôiSấm sétChuyển động
5Tốn, phongGióThông suốt
6Khảm, thủyNướcHiểm trở
7Cấn, sơnNúiAn tĩnh, vững
8Khôn, địaĐấtNhu thuận, yếu, nhỏ
Hình 6: Ý nghĩa của bát quái

Lạc thư

2298 – 2198 TCN: Ông Đại Vũ, người sáng lập Nhà Hạ, tìm thấy Lạc thư trên lưng con Rùa thần.

Hình 7: Lạc thư, Nút và Số, công bố vào đời Tống, khoảng năm 1000 SCN

Hậu thiên Bát quái, 64 Trùng quái & phần Kinh

Hình 8: Hậu thiên Bát Quái Văn Vương, công bố vào đời Tống, khoảng năm 1000 SCN

1110 – 1043 TCN: Ông Chu Văn Vương, người sáng lập Nhà Chu đã lập ra Hậu thiên Bát Quái từ Lạc Thư, sắp sếp lại 64 quẻ gọi là 64 quẻ Hậu thiên BQ và đưa ra lời bình hay thoán từ về từng quẻ.      

1040  – Ông Chu Công Đán, con ông Văn Vương, viết lời bình về từng hào hay Hào từ của 64 quẻ, tổng cộng có 64 * 6 = 384 hào từ.

Thập Dực

551 – 479 TCN: Ông Khổng Tử3Có một số học giả, bao gồm cả người Trung Quốc không tin điều này. Theo họ, cùng lắm ông chỉ nghiên cứu KD và giảng cho một số học trò. Thập dực là do các học giả bao gồm cả Khổng gia, Lão gia thời Chiến Quốc viết (từ khoảng thế kỷ V đến 221 TCN). Nguyễn Hiến Lê: Kinh Dịch Đạo Của Người Quân Tử, NXB Hồng Đức, một triết gia và chính trị gia thời Xuân Thu viết bình giải chi tiết về Kinh Dịch, gọi là Thập Dực gọi là Thập Truyện, một phần không thể thiếu của KD hiện nay4Chữ truyện thời xưa có nghĩa khác ngày nay: những lời để giải thích kinh thì gọi là truyện. Thập là mười, dực là Cánh chim, ngụ ý là Thoán và Hào từ giống như con chim, giờ thêm Cánh cho nó. Nguyễn Hiến Lê: Kinh Dịch Đạo Của Người Quân Tử, NXB Hồng Đức.

Hình 9: Thứ tự 64 Trùng Quái Văn Vương hay Hậu Thiên

Thời điểm viết Thập Dực là một mốc rất quan trọng, và được coi là sự hệ thống hóa hay tập đại thành của Kinh Dịch.

Trong Truyện cũng nói đến quá trình sinh thành từ thái cực đến bát quái như hình dưới.

Hình 10: Từ Thái cực đến Bát quái

Các mối quan hệ

Năm 156 – 87 TCN: thời Hán Vũ Đế, Kinh dịch được nói đến chỉ có 64 quẻ Hậu thiên và phần Kinh, không hề có các đồ hình5Nguyễn Vũ Tuấn Anh: Tìm về cội nguồn Kinh Dịch, NXB Đại học quốc gia TP. Hồ chí Minh 2001.

1011-1077: Ông Thiệu Khang Tiết, đời Tống, người được cho là tác giả cuốn Mai Hoa Dịch Số. Mai Hoa Dịch Số là tác phẩm đầu tiên có in hình Thái cực, Hà đồ, Lạc Thư, nói về sự khác nhau giữa TTBQ & HTBQ, mối liên hệ giữa HĐ với TTBQLT với HTBQ và xác định các hành của Bát quái theo thuyết Ngũ hành. 6Nguyễn Vũ Tuấn Anh: Tìm về cội nguồn Kinh Dịch, NXB Đại học quốc gia TP. Hồ chí Minh 2001.

Hình 11: Mối quan hệ Hà đồTTBQ và Lạc thư-HTBQ, công bố vào đời Tống, khoảng năm 1000 SCN 7 Thiệu Khang Tiết (康節): Mai Hoa Dịch số (梅花易數).
Hãy chia sẻ

Không thể copy

You cannot copy